GIÃN TĨNH MẠCH Ổ MẮT
Một
người đàn ông 63 tuổi được giới thiệu đến phòng khám của chúng tôi với tiền sử
13 năm bị mất thị lực từng đợt, song thị hai mắt
(binocular diplopia), và bị sa mí mắt (blepharoptosis)
trái trong lúc cúi xuống hoặc kéo căng cơ mà đã trở xấu trong năm vừa qua. Ngoài phẫu thuật cườm mắt, thì bệnh nhân
không có tiền sử về ổ mắt nổi bật, hình chụp CT đầu và ổ mắt trước đây không
cho thấy sự bất thường nào. Bệnh nhân
này bị nghi ngờ bị dị tật mạch ổ mắt (orbital vascular anomaly).
Chụp
CT đầu được tiến hành trong lúc bệnh nhân thực hiện thao
tác Valsalva (Valsalva maneuver: người
thực hiện sẽ ngậm miệng, bịt mũi cùng lúc thở mạnh ra), cho thấy khối ổ mắt (orbital
mass) có khả năng phồng ra. Khi đến
khám với chúng tôi, thị lực của bệnh nhân là 20/20 ở mắt bên phải và 20/50 ở mắt
bên trái, với một dấu hiệu đồng tử Marcus Gunn
(Marcus Gunn pupil hoặc relative afferent pupillary defect [dị tật đồng tử
hướng não tương đối]) ở mắt trái. Khi kiểm
tra, bệnh nhân không có hiện tượng bị lồi mắt (Hình A). Kiểm tra thị trường cho thấy đồng tử bị co thắt
nghiêm trọng (Hình 1). Việc thực hiện thao tác Valsalva đã làm cho mắt
bên trái lồi ra (proptosis) 6 mm, với cầu trên phía
trước (anterior posterior globe) bị dời
chỗ và sa mí mắt (Hình B). Tình trạng lồi
mắt trở lại bình thường khi bệnh nhân thư giãn.
Hình chụp CT ổ mắt trong lúc bệnh nhân ở trạng thái nghỉ không có gì nổi
bật (Hình C và D), nhưng khi thực hiện thao tác Valsalva cho thấy một khối ổ mắt
đã làm cho cầu trên phía trước bị dời chỗ (Hình E và F). Hình chụp X-quang mạch ổ mắt chứng thực sự hiện
diện của một khối ổ mắt có khả năng phồng ra (Hình 2).
Mặc
dù phương pháp chẩn đoán loại trừ (differential diagnosis) khối u ổ mắt là khá bao
quát, bao gồm u lympho (lymphoma), các khối u di căn, và các khối viêm,
nhưng các kết quả lâm sàng và các kiểm tra bằng hình chụp ở bệnh nhân này cho
thấy có đặc điểm bệnh lý của chứng dị tật mạch ổ mắt và hoàn toàn phù hợp với dị
tật tĩnh mạch có thể sưng phồng (nghĩa là, giãn tĩnh mạch). Bị giam giữ trong ổ mắt, khối giãn nở này có
thể gây ra hội chứng khoang mắt (orbital compartment syndrome) từng cơn và bệnh thần
kinh thị giác đè nén (compressive optic neuropathy). Bệnh nhân đã tiến hành thành công điều trị nội
mạch và điều trị gây cứng qua ổ mắt (transorbital sclerosing treatment). Thị lực sau phẫu thuật là 20/30 ở mắt bên
trái, với thị trường ổn định. (Trở về đầu trang)
Bác sĩ,
Tiến sĩ Lee Kiang
Bác sĩ, Tiến sĩ Alon Kahana
Trung Tâm Mắt Kellogg, Ann Arbor, MI
Trung Tâm Mắt Kellogg, Ann Arbor, MI
Một
người đàn ông 67 tuổi được đưa vào khoa cấp cứu với tiền sử 10 ngày bị đau ở ngực
bên trái, tình trạng này đã bắt đầu xuất hiện sau một cơn ho dữ dội. Ông mô tả bị đau kéo dài, nhưng không bị khó
thở, và không thuyên giảm khi sử dụng các loại thuốc
giảm đau (analgesic agent). Ông cũng lưu ý tình trạng sưng ở phần dưới của
ngực bên trái. Bệnh nhân này có tiền sử
hút thuốc lá, tăng huyết áp (hypertension), và bệnh
phổi tắc nghẽn mãn tính (chronic obstructive
pulmonary disease) mà căn bệnh này đòi hỏi điều trị tăng áp suất đường dẫn khí liên tục (continuous positive airway pressure). Không có tiền sử bị chấn
thương ngực (chest trauma) hoặc phẫu
thuật liên quan đến ngực.
Kiểm
tra tổng quát cho thấy hiện tượng ngực không đối xứng
(thoracic asymmetry), với một khối mềm có thể
co giãn tương ứng với khu vực bị sưng, có cảm giác đau khi chạm vào. Khối mềm này tăng kích thước khi hít vào và
giảm kích thước khi thở ra. Hình chụp
X-quang ngực cho thấy nhu mô ngực phồng ra vượt khỏi lồng ngực nằm bên đáy phổi
trái (Hình A, mũi tên). Hình chụp CT ngực
tiết lộ tình trạng thoát vị phổi (lung herniation) qua một khoảng không liên sườn dưới
ở hướng bên, và tình trạng tràn dịch màn phổi
(pleural effusion) ở bên trái (Hình B, mũi
tên).
Bác sĩ y khoa Maria
Asenjo
Bác sĩ y khoa Maria Angelina
Hospital Rey Juan Carlos, Madrid, Tây Ban Nha
Hospital Rey Juan Carlos, Madrid, Tây Ban Nha
HỘI CHỨNG WELLENS
Một
người đàn ông 31 tuổi, hút thuốc lá, và mắc bệnh tiểu
đường (diabetes mellitus), xuất hiện
tại khoa cấp cứu với tình trạng đau ngực ổn định (exertional chest pain, hoặc
stable angina) xảy ra từng cơn trong vòng 4 ngày. Đo điện tim, được thực hiện khi bệnh nhân vừa
nhập viện (Hình A), tiết lộ các hiện tượng nghịch đảo sóng T trước (anterior T-wave inversion – anterior negative T waves) với các sóng T bên hai pha (biphasic
lateral T wave), điều này gây ra mối lo ngại về hội chứng Wellens, một hội
chứng được xem có liên quan đến chứng hẹp nghiêm trọng động mạch hướng lên phía
trước bên trái. (Xung điện dọc
[artifact] ở điện cực V1 [lead V1] không liên quan đến hội chứng Wellens).
Nồng
độ troponin I ban đầu là 0,07 ng/ml (phạm vi tham khảo là 0 đến 0,03 ng/ml); nó
tăng đến 0,58 ng/ml sau 6 giờ và đạt mức tối đa là 0,79 ng/ml trước khi sử dụng
phương pháp can thiệp. Chụp X-quang mạch vành (coronary
angiography) được tiến hành 12 giờ sau khi xuất hiện chứng hẹp 95% động
mạch hướng lên phía trước nằm giữa bên trái (Hình B), và đã được điều trị thành
công bằng ống stent truyền thuốc (Hình C).
Bệnh nhân được phát hiện có bệnh tiểu đường không được kiểm soát tốt, với
mức hemoglobin A1C là 11,9%.
Bệnh
nhân không có diễn tiến nổi bật sau khi tái tạo mạch, với lượng máu bơm từ tâm
thất trái trong mỗi nhịp đập (left ventricular ejection fraction) được duy trì,
và đã xuất viện sau khi được tư vấn ngừng hút thuốc lá, giáo dục về cách quản
lý bệnh tiểu đường, và giới thiệu tham gia chương trình phục hồi tim. (Trở về đầu trang)
Bác sĩ y khoa Lakshmi
Kannan
Bác sĩ y khoa Vincent M. Figueredo
Albert Einstein Medical Center, Philadelphia, Hoa Kỳ
Bác sĩ y khoa Vincent M. Figueredo
Albert Einstein Medical Center, Philadelphia, Hoa Kỳ
Một
người phụ nữ 77 tuổi với tình trạng mất khả năng
giãn vòng cơ (achalasia), được kiểm
tra đánh giá tại một phòng khám vị tràng học
(gastroenterology clinic: phòng khám chuyên khoa dạ dày và ruột) cho chứng nuốt khó (dysphagia)
các thức ăn dạng rắn (cứng) và không thường xuyên xảy ra, trào ngược (regurgitation)
chất lỏng và thức ăn dạng rắn, các đợt tái nhiễm trùng thực quản trong hơn 11
năm qua, cũng như tình trạng xuống cân 7,7 kg (17 lbs) trong 3 năm vừa qua.
Hình
chụp X-quang ngực cho thấy có một vùng chứa mức
khí-chất lỏng (air-fluid level) ở
phía bên phải của tim (Hình A, mũi tên).
Chụp X-quang thực quản cho thấy một túi thừa
trên cơ hoành (epiphrenic diverticulum),
10 cm × 15 cm (Hình B, mũi tên), và hiện tượng chậm bài tiết tại chỗ nối dạ dày và thực quản (gastroesophageal junction) cùng với tình trạng giãn nở thực quản (esophageal
dilatation) và uốn khúc thực quản (esophageal tortuosity), đây là những phát hiện phù
hợp với kết quả chẩn đoán bệnh nhân bị mất khả năng giãn cơ. Kiểm tra nội soi đã chứng thực sự hiện diện
và vị trí của miệng túi thừa, đồng thời tình trạng nhiễm
nấm men (yeast infection) đã được chứng
thực bởi tiến trình nuôi cấy vi sinh vật (culture).
Vì các triệu chứng của bệnh nhân có tính chất gia tăng mức độ nghiêm trọng,
cho nên thủ thuật soi ổ bụng cắt bỏ túi thừa, thủ
thuật mở cơ Heller (Heller’s myotomy),
và thủ thuật quấn đáy trên bao tử Dor (Dor’s fundoplication) đã được tiến hành, và không
xảy ra biến chứng.
Túi
thừa trên cơ hoành thường phát sinh ngay gần cơ thắt
thực quản dưới (lower esophageal sphincter –
LES). Tình trạng này thường được
xem là bị gây ra bởi hiện tượng phình niêm mạc thực
quản (esophageal mucosa) và dưới niêm mạc thực quản (esophageal
submucosa) từ một khu vực bị suy yếu ở lớp cơ do tăng áp trong lòng thực
quản, và thường được xem có liên quan đến rối loạn
co bóp (motility disorder) tiềm ẩn chẳng
hạn như mất khả năng giãn cơ, như trong trường hợp này. Hai năm sau khi phẫu thuật, bệnh nhân này đã
hoàn toàn không còn xuất hiện các triệu chứng. (Trở về đầu trang)
Bác sĩ y
khoa Cainan Foltz
Bác sĩ y khoa Williamson Strum
Scripps Clinic, La Jolla, CA, Hoa Kỳ
Scripps Clinic, La Jolla, CA, Hoa Kỳ
TIM ĐẬP NHANH SAU BỮA ĂN TỐI
Một
phụ nữ 76 tuổi bị viêm thấp khớp (rheumatoid arthritis), bệnh
tiểu đường (diabetes mellitus), và
tăng huyết áp, xuất hiện với tiền sử 1 tháng bị các đợt tim đập nhanh và chỉ xảy
ra sau khi bà ăn tối. Cảm giác này xuất hiện
ở giữa ngực và kéo dài khoảng 10 – 15 phút sau bữa ăn.
Điện
tâm đồ của bệnh nhân không có gì đáng lưu ý.
Hình chụp X-quang ngực (Hình A) cho thấy bóng trung thất (các đầu mũi
tên trắng) nằm ngang với mép tim trái (các đầu mũi tên đen). Hình chụp CT ngực cho thấy tình trạng thoát vị
cơ hoành bên trái (Hình B), với dạ dày nằm trong khoang ngực (Hình C, nhìn ở mặt
trước), nằm cạnh tâm thất trái (Hình D, nhìn từ dưới lên, các đầu mũi tên).
Dạ
dày bị xoắn lại một cách rõ rệt, một phát hiện phù hợp với chứng xoắn dạ dày (gastric
volvulus: dạ dày quay vòng bất
thường trên 180o, tạo nên sự tắc nghẽn mà có thể dẫn đến tình trạng
nghẽn [do thoát vị] và bóp nghẹt). Nội
soi dạ dày cho thấy bị tình trạng xoắn, với niêm mạc bị xoắn lại. Sau khi phẫu thuật hiệu chỉnh tình trạng
thoát vị và xoắn, thì tình trạng tim đập nhanh đã biến mất, và trong kỳ kiểm
tra theo dõi 1 năm sau phẫu thuật, bệnh nhân không còn xuất hiện các triệu chứng
nữa. (Trở về đầu trang)
Bác sĩ,
Tiến sĩ Kazutaka Kurokohchi
Bệnh Viện Uchinomi, Shodoshima, Nhật Bản
Bệnh Viện Uchinomi, Shodoshima, Nhật Bản
Bác sĩ
Osamu Imataki
Đại Học Kagawa, Kita, Nhật Bản
Đại Học Kagawa, Kita, Nhật Bản
Một
người đàn ông 74 tuổi xuất hiện với tiền sử 30 năm bị chứng
nuốt khó (dysphagia) và nôn ngược thức ăn lên miệng (regurgitation) từng cơn, mà ban đầu bác sĩ của bệnh
nhân này gọi là “phản ứng kích động – hysterical reaction”. Bệnh nhân này báo cáo có các triệu chứng no sau xương ức (retrosternal
fullness) dẫn đến tình trạng nôn ngược thức ăn lên miệng cứ mỗi 2 đến 3
tháng; ông không bị đau ngực (chest pain), xuống cân, hoặc thay đổi về tần suất
của triệu chứng trong khoảng thời gian 30 năm này.
Một
loại thuốc ức chế bơm proton (proton-pump inhibitor) đã được chỉ định 3 năm trước
khi các triệu chứng xuất hiện mà vẫn không giúp thuyên giảm. Bệnh nhân này đã được giới thiệu đi kiểm tra
đánh giá. Kết quả chụp X-quang nuốt bari (barium-swallow
examination) cho thấy 2 túi thừa (diverticulum) gần gốc hình thể mở nút chai (được
đánh dấu) của đoạn thực quản xa (Hình A).
Khoảng không bên trong (lumen) thực quản được xác định bằng nội soi,
nhưng ống nội soi không thể tiến xa hơn, có lẽ do tình trạng uốn khúc thực quản (esophageal
tortuosity) (Hình B). Phương pháp
đo áp suất khí và hơi (manometry) đã được đề xuất để đánh giá tình trạng
co thắt thực quản lan tỏa, nhưng đã không thể thực hiện.
Các
triệu chứng của bệnh nhân này vẫn không thay đổi, với chứng khó nuốt xảy ra
không thường xuyên. Bệnh nhân không xuất
hiện các triệu chứng giữa các đợt phát, và đã từ chối sử dụng các phương pháp
trị liệu khác, chẳng hạn như các loại thuốc giúp
thư giãn cơ trơn (smooth-muscle relaxant). (Trở về đầu trang)
Bác sĩ
y khoa Chin Yit Soo
University
of Edinburgh, Edinburgh, Anh Quốc
Bác sĩ y khoa Jonathan Fletcher
LẠC VỊ THẤU KÍNH MẮT TRONG HỘI CHỨNG MARFAN
Một
phụ nữ 27 tuổi với chẩn đoán bị hội chứng Marfan
(Marfan’s syndrome: một rối loạn mang tính di truyền, thường ảnh hưởng đến
các xương dài trong cơ thể: cao, ốm; cánh tay, chân, ngón chân, ngón tay dài
hơn bình thường, bị vẹo xương sống, răng nhiều, bàn chân bị bẹt [flat feet]) xuất hiện với tình
trạng thị giác trở xấu và bị chói (glare: chóa) ở hai mắt trong 1 tháng qua. Khi kiểm tra, thị
lực (visual acuity) là 20/30 ở mỗi
bên mắt. Hiện tượng thấu kính bị lạc vị bán phần trên hố thái dương (superotemporal partial subluxation) được lưu ý ở mỗi
bên mắt. Khi kiểm tra gần (close
inspection) mắt phải, thì số lượng tổng cộng các dây
chằng treo thấu kính mắt (zonule) được
quan sát bị sụt giảm khi các khoảng không giữa các dây chằng này bị nới rộng
(các mũi tên). Áp suất trong mắt có số
đo bình thường.
Lạc vị thấu kính mắt (ectopia lentis)
là một phát hiện ở mắt trong trường hợp của hội chứng Marfan và thường phát triển
trong khoảng từ lúc sinh ra cho đến năm 30 tuổi. Tình trạng lạc vị thấu kính mắt thường xảy ra
ở hai bên, có tính đối xứng, và theo hướng trên hố thái dương, mặc dù tình trạng
này có thể xảy ra ở các hướng khác. Các
sợi chằng treo thấu kính mắt có số lượng nhỏ, thường bị mỏng dần và bị đứt.
Phương
pháp phẫu thuật can thiệp (surgical intervention) có thể cần đến nếu tật khúc xạ (refractive
error) không thể quản lý bằng phương pháp truyền thống hoặc nếu bệnh tăng nhãn áp (glaucoma)
phát triển một cách mất kiểm soát. Bệnh
nhân này đã được điều trị bằng phương pháp truyền thống, và thị lực đã được cải
thiện bằng kính đeo mắt do bác sĩ chỉ định (prescription eyeglasses). Tình trạng của bệnh nhân đã giữ được ổn định
trong 2 năm theo dõi. (Trở về đầu trang)
Bác sĩ
y khoa David R. Lally
Trợ lý nghiên cứu lâm sàng (Clinical Research Associate – CRA) Julia Monsonego
Wills Eye Hospital, Philadelphia, PA
Trợ lý nghiên cứu lâm sàng (Clinical Research Associate – CRA) Julia Monsonego
Wills Eye Hospital, Philadelphia, PA
Một
người phụ nữ 34 tuổi xuất hiện với tiền sử 3 tháng bị các mảng loét ở vòm miệng (palate:
ngạc) và nướu răng (gingiva). Kiểm tra tổng quát cho thấy 2 chỗ bị loét với
các mép có hình thể không bình thường ở vòm miệng cứng (Hình A) và niêm mạc nướu
răng (Hình B). Xương vòm miệng và cung xương hàm trên chứa các ổ răng (maxillary alveolar process) bị bong tróc ổ
(focally denuded) lớp niêm mạc bao bọc.
Chụp CT (sử dụng chất phản quang) các xoang
cạnh mũi (paranasal sinus), mũi, và ổ
mắt không thấy sự hiện diện của khối u hoặc tình trạng sưng
hạch bạch huyết (lymphadenopathy). Nội soi mũi
(nasal endoscopy) có kết quả bình thường. Mẫu sinh thiết vòm miệng có kết quả dương
tính với khuẩn cầu gram-dương Staphylococcus
aureus. Các kết quả mô bệnh học (histopathological finding)
cho thấy âm tính với bệnh ung thư.
Bệnh
nhân này đã bắt đầu tiếp nhận trị liệu kháng sinh qua tĩnh mạch và có biểu hiện
khả quan cho đến ngày thứ 10, khi cô bị sốt và sưng mặt bên trái từng đợt. Hai tuần sau, vết thương ở vòm miệng trở nên
lớn hơn (Hình C), và đã được tiến hành sinh thiết lần hai. Kiểm tra mô bệnh học cho thấy u lym phô tế bào T ngoại hạch (extranodal natural-killer-cell–T-cell lymphoma),
loại ở mũi. Đây là một dạng u lym phô
non-Hodgkin ngoại hạch bên trong đường tiêu hóa hô
hấp trên (upper aerodigestive tract),
thường bao gồm khoang mũi (nasal cavity), mũi hầu
(nasapharynx), và các xoang cạnh mũi.
Bệnh
nhân này đã tiếp nhận trị liệu phóng xạ và trị liệu hóa học SMILE bổ sung (bao
gồm asparaginase, methotrexate, ifosfamide, etoposide, và dexamethasone) và đã
được tiến hành ghép tủy xương tự thân (autologous bone marrow transplantation: người nhận
cũng là người cho). Vào tháng thứ 8, bệnh
nhân ở trong giai đoạn bệnh được thuyên giảm, không có chứng cứ u lym phô tái
phát. (Trở về đầu trang)
Bác sĩ y khoa David
Jiménez Gallo
Tiến sĩ Mario Linares Barrios
Hospital Universitario Puerta del Mar, Cadiz, Tây Ban Nha
Tiến sĩ Mario Linares Barrios
Hospital Universitario Puerta del Mar, Cadiz, Tây Ban Nha
NHIỄM VIRUT HERPES SIMPLEX Ở NGÓN TAY
Một
cô gái 18 tuổi, trước đây khỏe mạnh, xuất hiện với tiền sử bị sốt, khó ở, và
đau ngón giữa ở tay trái trong 2 tuần. Kết
quả kiểm tra tổng quát cho thấy một khu vực bao gồm các túi ban đỏ giao nhau (erythematous
confluent vescicle) ở đốt giữa của ngón này và sưng
hạch ở nách (axillary lymphadenopathy).
Bệnh
nhân này đã được tiến hành chẩn đoán lâm sàng nhiễm trùng ngoài da (erysipelas:
chứng viêm quầng) và đã được tiến hành trị liệu kháng sinh uống bằng miệng. Một tuần sau đó cô gái này đã quay trở lại với
các triệu chứng kéo dài. Cô báo cáo
không có tiền sử bị các triệu chứng ở miệng hoặc bộ phận sinh dục. Xét nghiệm kháng
thể huỳnh quang trực tiếp (direct
fluorescence antibody testing) dịch trong các túi này đã được tiến hành
và đã chứng thực bệnh nhân bị nhiễm virut herpes
simplex loại 2 (herpes simplex virus type 2
– HSV-2).
Các
triệu chứng ban đầu, như sốt và khó ở, những dấu hiệu xác nhận bị nhiễm HSV-2
nguyên phát, cho thấy rằng tình trạng nhiễm trùng này mới bị mắc phải. Bệnh nhân này đã được chẩn đoán bị nhiễm virut herpes simplex ở ngón tay (herpetic whitlow) và đã được điều trị bằng thuốc
acyclovir uống bằng miệng trong 7 ngày.
Một tuần sau, bệnh nhân đã quay trở lại để kiểm tra, và các triệu chứng
đã được cải thiện. Sau 2 năm theo dõi, bệnh
nhân báo cáo đã có vài lần tái phát ở ngón tay, và đã cần đến điều trị bằng thuốc
kháng virut. (Trở về đầu trang)
Sara Izzo
University of Rome, Sapienza, Rome, Ý
Bác sĩ giải phẫu Muneer Ahmed
King's College London, London, Anh Quốc
Một
người phụ nữ 65 tuổi xuất hiện tại bệnh viện với tiền sử 4 tháng bị sốt cấp độ
thấp từng đợt, suy nhược, chán ăn, và xuống cân. Bệnh nhân này chỉ có tiền sử bị viêm dạ dày xơ hóa (atrophic
gastritis) được điều trị bằng vitamin B12 tiêm qua cơ.
Kiểm
tra tổng quát cho thấy một cục u mềm lớn lồi ra từ cạnh sườn phải (Hình A, nhìn
từ phía sau). Các xét nghiệm máu cho thấy
số lượng bạch cầu là 17900/mL3 (90% bạch cầu trung tính), mức
hemoglobin là 9,8 g/dL, và mức protein C-reactive là 274 mg/L, và tốc độ lắng hồng cầu (erythrocyte
sedimentation rate) là 104 mm/giờ.
Mẫu
cấy máu có kết quả âm tính. Chụp CT bụng
sử dụng chất phản quang cho thấy một viên sỏi lớn gây tắc nghẽn ở đài thận phải
trên (upper-pole calyx of the right kidney), gây teo ổ (focal atrophy) và bào mỏng
vỏ thận trên (Hình B, mũi tên); còn có một khu vực tụ mủ lớn sau màng bụng
(Hình C, các mũi tên trắng) kéo dài đến ngực (Hình C, mũi tên đỏ) và các mô dưới
da ở cạnh sườn phải (Hình C, mũi tên xanh).
Mẫu
thử nước tiểu và mẫu thử dịch từ chỗ tụ mủ có kết quả dương tính với vi khuẩn
Proteus mirabilis. Thủ thuật cắt bỏ thận
phải đã được tiến hành. Kiểm tra cấu
trúc mô tiết lộ khu vực tụ mủ bị viêm mãn tính và không có những thay đổi về u
hạt vàng (xanthogranulomatous change).
Mười tám tháng sau khi phẫu thuật, sức khỏe của bệnh nhân này đã được cải
thiện. (Trở về đầu trang)
Bác sĩ y
khoa Sergio Prieto-González,
Hospital Clínic, Barcelona, Tây Ban Nha
Hospital Clínic, Barcelona, Tây Ban Nha
Bác sĩ,
Tiến sĩ y khoa Montserrat Alemany
Hospital Plató, Barcelona, Tây Ban Nha
Hospital Plató, Barcelona, Tây Ban Nha
Nguồn
(Sources):