CÁC XÉT NGHIỆM VÀ CHẨN ĐOÁN
Bác
sĩ của bạn thường có thể chẩn đoán bệnh sởi dựa trên ban sởi đặc thù của căn bệnh
cũng như các đốm Koplik nhỏ, có màu đỏ tươi trên nội mạc miệng. Nếu cần thiết, xét nghiệm máu có thể được sử dụng
để chứng thực tình trạng phát ban đó là ban sởi.
Việc
chẩn đoán bệnh sởi phần lớn là lâm sàng, có nghĩa là hình dạng bên ngoài và tiền
sử bệnh của bệnh nhân giúp đưa ra kết quả chẩn đoán. Đối với một cá nhân được biết đã tiếp xúc với
một người bị nhiễm bệnh sởi hoặc đi du lịch đến một nước khác, bệnh sởi phải
luôn được cân nhắc khi đối diện với một bệnh nhân bị sốt cao và phát ban đặc
thù. Cho đến khi ban đỏ xuất hiện, sự hiện
diện của các đốm Koplik cũng có thể giúp đưa ra kết quả chẩn đoán. Phần lớn các trường hợp bị nghi ngờ nhiễm bệnh
sởi ở Hoa Kỳ hóa ra không phải là bệnh sởi.
Các chuyên gia đề xuất rằng việc chẩn đoán phải được chứng thực bằng xét
nghiệm máu cho kháng thể IgM, đây là một loại kháng thể chống lại virut sởi. Nếu kết quả xét nghiệm IgM là dương tính, thì
cần phải tiến hành xét nghiệm nuôi cấy virut (viral culture).
Chẩn
đoán lâm sàng sẽ trở nên khó khăn (1) trong thời gian bệnh tiền triệu; (2) khi
ban sởi bị giảm dần do các kháng thể được tiếp nhận thụ động hoặc trước đây được
chủng ngừa; (3) khi ban sởi lặn đi hoặc phát ban trễ ở những trẻ em bị suy giảm
khả năng miễn dịch hoặc thiếu dinh dưỡng nghiêm trọng với khả năng miễn dịch tế
bào bị suy yếu; và (4) ở những khu vực có tỷ lệ nhiễm bệnh sởi thấp đồng thời
các sinh vật gây bệnh khác là nguyên nhân gây ra đa số các trường hợp bệnh với
hiện tượng sốt và phát ban.
Mặc dù việc chẩn đoán bệnh sởi
thường được xác định từ hình ảnh lâm sàng kinh điển, nhưng việc xác định và
chứng thực bằng xét nghiệm của việc chẩn đoán là rất cần thiết cho sức khỏe
cộng đồng và sự kiểm soát sự bùng phát.
Việc chứng thực bằng xét nghiệm đạt được nhờ các phương pháp sau đây:
-
Xét nghiệm huyết thanh cho hàm lượng
các kháng thể IgM chỉ định sởi (measles-specific IgM) hoặc IgG
-
Cách ly virut sởi
-
Đánh giá phản ứng chuỗi
reverse-transcriptase polymerase (RT-PCR: được dùng để phát hiện mức độ thể
hiện RNA)
Xét nghiệm huyết thanh (serologic
testing), thường được thực hiện bằng xét
nghiệm miễn dịch liên kết men (enzyme-linked
immunoassay – ELISA hoặc EIA), có thể
được sử dụng để xác định bệnh nếu được tiến hành vào thời điểm thích hợp. Thông thường, một người dễ nhiễm bệnh tiếp
xúc với vắcxin hoặc virut sởi tự nhiên trước tiên sẽ tiến hành một đáp ứng miễn dịch IgM (IgM
response) và sau đó là đáp ứng miễn dịch IgG
(IgG response). Đáp ứng miễn dịch IgM chỉ là tạm thời (1 – 2
tháng), và đáp ứng miễn dịch IgG sẽ kéo dài trong vài năm. Những cá nhân không bị nhiễm bệnh sẽ có kết
quả âm tính IgM và âm tính IgG hoặc dương tính IgG, phụ thuộc vào tiền sử nhiễm
bệnh trước đây.
Việc
cách ly virut sởi không được khuyến khích như một phương pháp định kỳ để chẩn
đoán bệnh sởi. Tuy nhiên, các trường hợp
cách ly virut tỏ ra hết sức quan trọng trong việc giám sát dịch tễ học phân tử
nhằm giúp xác định nguồn gốc địa lý của virut này và các chủng virut tuần
hoàn ở Hoa Kỳ.
Hàm lượng kháng thể IgM chỉ định bệnh sởi
-
Thu thập mẫu máu vào ngày thứ ba sau
khi phát ban hoặc bất kỳ ngày nào sau đó lên đến 1 tháng sau khi bắt đầu
-
Mức kháng thể IgM huyết thanh của
bệnh sởi duy trì dương tính 30 – 60 ngày sau phát bệnh ở đa số các cá nhân
nhưng có thể không phát hiện được ở một số người ở tuần thứ 4 sau khi bắt đầu
phát ban
-
Các kết quả dương tính lầm lẫn có
thể xảy ra ở các bệnh nhân bị các dạng bệnh thấp
khớp (rheumatologic disease), nhiễm
virut parvovirus B19, hoặc bệnh tăng bạch cầu đơn
nhân truyền nhiễm (infectious mononucleosis:
thường do virut Epstein-Barr gây ra, qua đường nước bọt, nên thỉnh thoảng được
gọi là bệnh hôn [kissing
disease]).
Một
loạt các xét nghiệm cho các kháng thể IgG để xác định bệnh sởi đều có sẵn và
bao gồm xét nghiệm ELISA, xét nghiệm ức chế dính kết
hồng cầu (hemagglutination inhibition - HI),
các xét nghiệm kháng thể huỳnh quang gián tiếp
(indirect fluorescent antibody test), xét nghiệm trung hòa (microneutralization),
và xét nghiệm trung hòa giảm mảng (plaque reduction neutralization).
Xét
nghiệm ELISA cho kháng thể IgM chỉ đòi hỏi một mẫu huyết thanh và được dùng cho
chẩn đoán nếu dương tính. Xét nghiệm
tham khảo được ưa chuộng là một loại xét nghiệm IgM (capture IgM test) được
trung tâm CDC phát triển. Xét nghiệm này
được sử dụng để chứng thực mỗi trường hợp bệnh sởi mà họ được báo cáo có một dạng
chứng thực bằng xét nghiệm khác. Các xét
nghiệm IgM của trung tâm CDC cho bệnh sởi thường có kết quả dương tính vào ngày
bắt đầu phát ban. Tuy nhiên, vào 72 giờ
đầu tiên sau khi phát ban, lên đến 20% các xét nghiệm cho IgM có thể cho ra các
kết quả âm tính sai lầm (false-negative result). Các xét nghiệm âm tính vào 72 giờ đầu tiên
sau khi phát ban phải được tiến hành trở lại.
Kháng thể IgM được phát hiện trong ít nhất 28 ngày sau khi phát ban và
thường lâu hơn.
Hàm lượng kháng thể IgG chỉ định bệnh sởi
-
Số lượng các kháng thể IgG tăng gấp
4 lần khi được so sánh giữa huyết thanh của trường hợp bệnh cấp tính và huyết
thanh của trường hợp bệnh đang hồi phục sẽ chứng thực bệnh sởi
-
Các mẫu xét nghiệm trường hợp cấp tính
phải được thu thập vào ngày thứ 7 sau khi phát ban
-
Các mẫu xét nghiệm trường hợp đang
hồi phục phải được thu thập từ 10 – 14 ngày sau khi mẫu xét nghiệm cấp tính
được thu thập
-
Huyết thanh cấp tính và huyết thanh
đang hồi phục phải được xét nghiệm cùng lúc như các mẫu huyết thanh ghép đôi
Các
xét nghiệm cho kháng thể IgG cần đến 2 mẫu huyết thanh, và kết quả chẩn đoán chỉ
được chứng thực sau khi mẫu thứ hai được thu thập. Do đó, các xét nghiệm IgM thường được sử dụng
để chứng thực kết quả chẩn đoán bệnh sởi.
Nuôi cấy virut (viral culture)
-
Các mẫu virut lấy từ họng và mũi có
thể được gửi đi bằng chất vận chuyển virut hoặc bằng tăm
bông lấy mẫu virut (viral culturette swab)
-
Mẫu nước tiểu có thể được gửi đi
bằng một hộp (lọ) được khử trùng
-
Phương pháp xác định chuỗi DNA của
virut ở phòng xét nghiệm tham khảo có thể xác định được virut bị cô lập là dịch
địa phương hay được du nhập vào từ nơi khác
-
Ở các bệnh nhân bị suy giảm miễn
dịch, việc cô lập virut hoặc xác định kháng nguyên bệnh sởi bằng phương pháp nhuộm huỳnh quang miễn dịch (immunofluorescence) có thể là phương pháp khả thi
duy nhất để chứng thực kết quả chẩn đoán
Phản ứng chuỗi polymerase
-
Phản ứng chuỗi RT-PCR, nếu có, có
thể nhanh chóng chứng thực bệnh nhân bị bệnh sởi
-
Các mẫu máu, họng, mũi họng (nasopharyngeal),
hoặc nước tiểu có thể được sử dụng
-
Các mẫu xét nghiệm phải được thu
thập vào lúc mới tiếp xúc với cá nhân bị nghi ngờ nhiễm bệnh sởi
Báo cáo trường hợp bị nghi ngờ nhiễm bệnh sởi
-
Báo cáo ngay các trường hợp bị nhiễm
bệnh sởi cho cơ quan y tế địa phương hoặc tiểu bang là việc cấp thiết và bắt
buộc. Tiêu chuẩn ca lâm sàng của cơ quan
CDC Hoa Kỳ cho các mục đích báo cáo chỉ đòi hỏi các điều kiện sau đây:
-
Phát ban lan rộng kéo dài 3 ngày
hoặc lâu hơn
-
Thân nhiệt 101,0oF (38,3oC)
hoặc cao hơn
-
Ho, chảy mũi, hoặc viêm màng kết (đỏ
mắt)
Đối với các mục đích báo cáo cho
trung tâm CDC Hoa Kỳ, các trường hợp được phân loại như sau:
-
Bị nghi ngờ: Bị sốt đi kèm phát ban
-
Có khả năng: Trường hợp đáp ứng tiêu
chuẩn ca lâm sàng, không có xét nghiệm máu hoặc xét nghiệm virut, không có mối
liên hệ (về dịch tễ học) với một trường hợp bệnh được chứng thực
-
Được chứng thực: Trường hợp nhiễm
bệnh được chứng thực bằng xét nghiệm hoặc đáp ứng tiêu chuẩn ca lâm sàng và có
mối liên hệ (về dịch tễ học) với một trường hợp bệnh được chứng thực; trường
hợp bệnh được chứng thực bằng xét nghiệm không cần phải đáp ứng tiêu chuẩn ca
lâm sàng
Có
rất nhiều bệnh nhiễm trùng và một số tình trạng bệnh lý khác có thể gây ra một
số triệu chứng của bệnh sởi, bao gồm một số như, sốt
xuất huyết (dengue fever), phát ban
do thuốc, nhiễm virut đường ruột và dạ dày, bệnh sởi Đức, bệnh Kawasaki, ban đào (roseola),
và hội chứng sốc độc tố do vi khuẩn (toxic shock syndrome). Điều quan trọng là các trường hợp bị nghi ngờ
phải được các chuyên gia y tế thăm khám và tiến hành các xét nghiệm thích hợp.
Nguồn bổ sung: