GIÚP NÃO HOẠT ĐỘNG
TỐT HƠN
Làm
cho cơ não của bạn linh hoạt hơn: Việc tập luyện cho não có thể giúp tăng cường
sức khỏe não và giảm bớt tình trạng suy giảm nhận thức, theo một nghiên cứu mới
của trường Đại Học Texas (University of Texas) ở Dallas, Hoa Kỳ.
Trong
nghiên cứu này, những tình nguyện viên dành ra 3 giờ mỗi tuần học và thực hành
các kỹ thuật rèn luyện não, như sàng lọc các chi tiết dư thừa khi đưa ra các
quyết định. Sau 12 tuần, những người
tham gia nghiên cứu đã có thể gia tăng lưu lượng máu ở não khoảng 8% - lưu lượng
máu, một yếu tố đánh dấu sức khỏe của não, sẽ bắt đầu giảm xuống ở những năm 20
tuổi, theo lời của tác giả nghiên cứu, tiến sĩ Sandra Bond Chapman.
Mặc dù những người tham gia nghiên cứu có độ tuổi từ
56 – 71, nhưng phương pháp rèn luyện não cũng có thể có lợi cho mọi lứa tuổi. “Bộ não tỏ ra nhạy cảm với sự kích
thích. Khi được kích thích liên tục, những
sự nối kết của não sẽ được tăng cường”, theo lời bác sĩ Gary Small, giám đốc Trung Tâm Trường Thọ Đại Học California Los Angeles
(UCLA Longevity Center) và là đồng tác giả của
ấn phẩm Chương Trình Ngăn Ngừa Bệnh Alzheimer
(The Alzheimer’s Prevention Program).
Bác
sĩ Small nói rằng, các dịch vụ nổi tiếng như Lumosity, dịch vụ này sử dụng các trò chơi (game)
nhằm giúp làm tăng hoạt động của các lĩnh vực khác nhau trong khả năng biểu hiện
của não, tỏ ra đặc biệt có lợi cho việc cải thiện trí nhớ. Nhưng bạn cũng có thể làm theo một vài phương
pháp đơn giản để giúp rèn luyện não hoạt động ở mức cao nhất. (Lưu ý rằng: Bạn chỉ có thể nhận thấy được
các kết quả khi bạn tích cực kết hợp các phương pháp này vào sinh hoạt hàng
ngày).
-
Tạm
nghỉ. Tạm ngưng các nhiệm vụ đòi hỏi suy
nghĩ trong vòng 3 đến 5 phút sẽ giúp gia tăng hiệu suất. Nghiên cứu cho thấy rằng tạm ngưng dòng suy
nghĩ sẽ giúp làm chậm nhịp độ của não – cho phép tạo ra các khoảng trống cho những
ý tưởng độc đáo tiếp theo của bạn, theo lời của tiến sĩ Chapman .
-
Bỏ
thói quen làm nhiều việc một lúc. Làm
nhiều việc một lúc sẽ làm cho não của bạn bị quá tải, do đó tạo sự mệt mỏi cho các thùy trán (frontal
lobes), điều này sẽ làm giảm hiệu suất và khả năng hoạt động của
não. Tiến sĩ Chapman nói rằng, phân nhỏ
các dự án lớn thành những công đoạn kéo dài 15 phút, và chỉ tập trung thực hiện
một công đoạn trong thời gian 15 phút đó. (Trở về đầu trang)
Nếu
bạn đang dự trữ bơ cacao (cocoa butter) để xóa đi những vết rạn ở da liên quan đến mang thai (pregnancy-related stretch mark), thì bạn có thể
nên tiết kiệm tiền: Xem ra là, di truyền có thể làm tăng đáng kể khả năng bạn bị
các vết rạn ở da, theo một nghiên cứu được đăng trên Tạp
Chí về Khoa Da Liễu Điều Tra (Journal of Investigative Dermatology).
Đối
với nghiên cứu này, các nhà khoa học từ công ty di truyền học cá nhân 23andMe
đã nghiên cứu mẫu DNA của 33 930 người, 4967 người trong số này là phụ nữ với
những vết rạn ở da nghiêm trọng liên quan đến mang thai. Các nhà nghiên cứu đã tìm thấy rằng các đột
biến ở (hoặc gần) 4 gen đặc biệt – ELN, SRPX, HMCN1, và TMEM18 – làm cho những
tình nguyện viên bị tăng nguy cơ có các vết rạn ở da khoảng 40%. Trong số các gen này, ELN (aka elastin) có
liên quan nhiều nhất đến các vết rạn ở da, đặc biệt các vết rạn xuất hiện trong
thời gian mang thai. Elastin là một
thành phần quan trọng của các sợi đàn hồi (elastic fiber), các sợi này giúp các mô co giãn.
Mặc
dù sự kéo giãn da quá mức là một cách giải thích ngắn gọn về các vết rạn ở da,
nhưng một số người có khuynh hướng phát triển các vết rạn ở da nhiều hơn so với
những người khác, theo lời của tác giả nghiên cứu, tiến sĩ Joyce Tung, giám đốc
nghiên cứu tại công ty 23andMe. Ví dụ,
trong nghiên cứu này, chỉ có 25% số nam giới được báo cáo là có các vết rạn ở
da, nhưng có 55% số phụ nữ phát triển các vết rạn ở da.
“Trước
đây, người ta không tìm thấy những thay đổi về gen có liên quan đến các vết rạn
ở da bị cô lập”, theo lời của tiến sĩ Tung.
Bà hy vọng rằng các phát hiện này sẽ dẫn đến các phương pháp điều trị hiệu
quả hơn nhắm vào quá trình sản xuất protein elastin. (Trở về đầu trang)
Đột
phá mới nhất trong lĩnh vực sức khỏe có thể nằm ở ngay các ngón tay của bạn.
Chẳng
bao lâu nữa, các bác sĩ có thể sẽ có khả năng kiểm tra được mức độ dẻo dai của động mạch chủ (aorta)
trong cơ thể bạn – một động mạch chính, khi bị xơ cứng, có thể làm tăng nguy cơ
tử vong do nhồi máu cơ tim hoặc đột quỵ (tai biến mạch máu não) – bằng cách kiểm
tra nhịp mạch ở ngón tay của bạn, theo một nghiên mới đây của trường Đại Học Iowa (University of Iowa).
Động
mạch chủ (aorta) vận chuyển máu giàu oxy từ tim đi khắp cơ thể bạn, và theo thời
gian, do các thay đổi về huyết áp, cholesterol tích lũy, và quá trình lão hóa tự
nhiên, các đặc tính dẻo dai của động mạch chủ có thể bị thoái hóa, theo lời bác
sĩ Tanvir Hussain, bác sĩ chuyên khoa tim ngăn ngừa
(preventive cardiologist) ở Los
Angeles. Các bác sĩ không phải lúc nào
cũng kiểm tra độ xơ cứng của động mạch chủ - một phần vì làm như vậy thường phải
kiểm tra nhịp mạch (bắt mạch) ở hai nơi (bao gồm động mạch đùi sâu bên trong háng [groin]),
theo lời của tác giả nghiên cứu tiến sĩ Gary Pierce.
Nhưng
tiến sĩ Pierce và nhóm nghiên cứu của ông đã phát minh ra một cách đo độ xơ cứng
dễ dàng hơn: với một dụng cụ có tên là máy biến năng (transducer) đặt ở ngón
tay, cùng một công thức bao gồm tuổi tác và chỉ số
trọng lượng cơ thể (body mass index – BMI). Con số kết quả sẽ nói cho bác sĩ biết thời
gian để nhịp mạch của bạn đi từ điểm này đến điểm kia, đây một số đo quan trọng
về độ dẻo dai của động mạch chủ.
Kiểm
tra này vẫn còn trong giai đoạn phát triển, nhưng trong thời gian này, người ta
biết được rằng độ xơ cứng của động mạch chủ có khuynh hướng do một số yếu tố
gây ra chẳng hạn như cao huyết áp, bệnh tiểu đường (đái tháo đường), và cao
cholesterol, theo lời bác sĩ Hussain. Do
đó, nếu bạn duy trì cân nặng khỏe mạnh, tập thể dục thường xuyên, và thử các
bài tập về thư giãn – kỹ thuật hít thở sâu và chậm trong vài phút có thể hạ huyết
áp được khoảng 4 mm Hg – đồng thời giữ cho tim hoạt động bình thường. (Trở về đầu trang)
Hãy
đưa con trẻ đi chủng ngừa cúm càng sớm càng tốt thay vì chờ các loại vắcxin 4 chủng loại (quadrivalent
vaccine: loại vắcxin chống lại 4 chủng loại cúm) mới, Hiệp Hội Bác Sĩ
Khoa Nhi Hoa Kỳ (American Academy of Pediatrics)
có ý thúc giục các bậc phụ huynh trong các đề xuất về dịch cúm hàng năm.
Vắcxin
4 chủng loại không được ưa chộng bằng loại vắcxin 3
chủng loại (trivalent vaccine) trong
các đề xuất được đăng trên tạp chí Nhi Khoa
(Pediatrics) số tháng ra tháng
Mười.
“Việc
chủng ngừa không nên bị trì hoãn để chờ một loại sản phẩm đặc biệt nào đó”, bác
sĩ Michael T. Brady, của bệnh viện
Nationwide Children’ Hospital ở Columbus, Ohio, và các đồng nghiệp đã viết
trong các nguyên tắc hướng dẫn này. “Bất
kỳ loại vắcxin 3 chủng loại hoặc 4 chủng loại nào phù hợp với độ tuổi mà có sẵn
đều có thể được sử dụng”.
Các
loại vắcxin cúm 4 chủng loại có thêm tác dụng bảo vệ chống lại chủng loại cúm B
“Victoria” nằm trên chủng loại cúm B chính khác và hai chủng loại cúm A trong vắcxin
3 chủng loại.
Vắcxin
4 chủng loại Fluzone Quadrivalent của công ty Sanofi Pasteur được cơ quan FDA
Hoa Kỳ chấp nhận sử dụng cho mọi người từ 6 tháng tuổi trở lên, vắcxin 4 chủng
loại FluMist của công ty Medimmune sử dụng cho những người từ 2 tuổi trở lên,
và vắcxin 4 chủng loại Fluarix của công ty GlaxoSmithKline sử dụng cho những
người từ 3 tuổi trở lên.
Mỗi
năm, các nhà sản xuất vắcxin cố gắng giảm thiểu các tổn thất ở các sản phẩm chứa
các chủng loại virut cúm B bao gồm trong loại vắcxin 3 chủng loại dựa trên những
sự kiện đã xảy ra trong mùa cúm ở khu vực Nam Bán Cầu, nhưng bao gồm cả hai chủng
loại cúm B trong loại vắcxin 4 chủng loại, bỏ đi sự ước tính.
Lợi
thế của vắcxin 4 chủng loại chỉ xuất hiện nếu chủng loại cúm đang lan truyền ở
khu vực Bắc Bán Cầu không trùng hợp với loại vắcxin 3 chủng loại, theo lời của
bác sĩ Angela L. Myers, chuyên gia bệnh
truyền nhiễm khoa nhi tại bệnh viện Children’s Mercy Hospitals and Clinics ở
thành phố Kansas City, Missouri.
“Mặc
dù nó có thể cung cấp khả năng miễn dịch tốt hơn chống lại chủng loại cúm B nếu
chủng loại đang lan truyền không trùng hợp với chủng loại trong vắcxin 3 chủng
loại, nhưng chúng tôi vẫn chưa biết rõ vào thời điểm này chủng loại nào đang
lan truyền”, theo lời của bác sĩ Angela L. Myers.
“Tốt
nhất là bạn nên cho con trẻ đi chủng ngừa với loại vắcxin đang được sử dụng
thay vì phải chờ một loại vắcxin mới, như vậy sẽ làm cho con trẻ của bạn sẽ gặp
nhiều nguy cơ bị bệnh cúm trong thời gian chờ đợi đó”, theo đề xuất của bác sĩ Carol J. Baker, giám đốc điều hành
của trung tâm Center for Vaccine Awareness & Research tại bệnh viện Texas
Children's Hospital, ở Houston, Texas.
“Tôi
cho rằng năm nay chúng ta sẽ không có nhiều vắcxin 4 chủng loại”, theo lời của
bác sĩ Carol J. Baker trong một cuộc phỏng vấn.
“Nếu bạn có thể chủng ngừa với vắcxin 4 chủng loại, thì thật tuyệt. Nhưng vắcxin 3 chủng loại cũng tốt không
kém”.
Khi
các bác sĩ không còn những lô vắcxin mà họ đã đặt mua cách đó vài tháng, thì
bác sĩ Carol J. Baker đề xuất rằng họ nên liên lạc với các công ty và theo dõi
trên trang mạng của các hiệp hội bác sĩ khoa nhi để cập nhật thông tin về việc
đặt hàng.
Các
nguyên tắc hướng dẫn về liều lượng trong năm nay vẫn không thay đổi, tiếp tục đề
xuất chủng ngừa cho tất cả trẻ em từ 6 tháng tuổi trở lên.
Ngoài
ra, theo hướng dẫn này, văn phòng các bác sĩ khoa nhi nên xem xét việc cung cấp
chủng ngừa cho những người thành niên đang chăm sóc trẻ em, đặc biệt những người
có nhiều nguy cơ bị các biến chứng liên quan đến cúm và những trẻ dưới 6 tháng
tuổi để “nuôi” chúng.
“Như
thường lệ, các bác sĩ khoa nhi, y tá (điều dưỡng), và các nhân viên chăm sóc y
tế nên xúc tiến việc sử dụng vắcxin chống cúm và các biện pháp kiểm soát lây
nhiễm. Ngoài ra, các bác sĩ khoa nhi nên
xác định ngay tức khắc các trường hợp nhiễm cúm để có thể tiến hành điều trị
kháng virut kịp thời khi có dấu hiệu, để giảm bớt tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử
vong”. (Trở về đầu trang)
Những
bậc cha mẹ thường la mắng, lăng mạ, hoặc chửi rủa nhằm sửa đổi hành vi xấu của
con cái, điều này có thể làm cho hành vi này càng kéo dài và làm cho đứa trẻ có
nhiều nguy cơ bị trầm cảm, theo một nghiên cứu mới đây đề xuất.
Nghiên cứu về sự phát triển (của một người hoặc một nhóm) theo
thời gian
(longitudinal study) đã tìm thấy rằng khoảng
một nửa số cha mẹ (45% đến 46% số người mẹ và 42% đến 43% số người cha) báo cáo
đã sử dụng ngôn ngữ không lành mạnh để giáo dục con cái của họ ở độ tuổi từ 13
– 14.
Sử
dụng mô hình so sánh chéo (cross-lagged model), nghiên cứu này đã cho thấy rằng
càng tiếp xúc với phương pháp giáo dục sử dụng ngôn ngữ không lành mạnh ở độ tuổi
13 thì càng cho thấy sự gia tăng các vấn đề về hành vi ở trẻ vị thành niên
trong độ tuổi từ 13 – 14 (beta = 0,12 và 0,11; xác suất P <0,001), tiến sĩ
Ming-Te Wang, nhà nghiên cứu dẫn đầu đồng thời là chuyên gia tâm lý học hành vi
của trường Đại Học Pittsburgh (University of Pittsburgh), và các đồng nghiệp, đã viết trong tạp chí Sự Phát Triển Của Trẻ Em (Child
Development) số ra ngày 4 tháng 9 năm 2013.
Càng
bị cha mẹ la mắng hoặc càng bị các hình thức kỷ luật sử dụng ngôn ngữ không
lành mạnh ở độ tuổi 13 một cách thường xuyên thì càng cho thấy sự gia tăng các
triệu chứng bị trầm cảm giữa độ tuổi 13 – 14 (beta = 0,16 và 0,14; xác suất P
< 0,001).
Nghiên
cứu này nằm trong số những nghiên cứu đầu tiên đánh giá tác động của biện pháp
kỷ luật bằng ngôn ngữ của cha mẹ lên hành vi của trẻ vị thành niên và chứng trầm
cảm, và đã cho thấy mối tương quan thuận nghịch giữa biện pháp kỷ luật sử dụng
ngôn ngữ không lành mạnh của cha mẹ và hành vi xấu của trẻ vị thành niên.
Các
nhà nghiên cứu đã viết rằng, “kết quả nghiên cứu cho thấy rằng chu kỳ cưỡng bức
của việc nuôi dạy con cái vận hành theo hướng cha hoặc mẹ có thể phản ứng lại
các vấn đề do con trẻ gây ra bằng biện pháp kỷ luật bằng lời nói mang tính thù
địch và sỉ nhục, và những sự bạo hành bằng ngôn ngữ này có thể khiến cho trẻ vị
thành niên (trẻ teen) càng phát triển hành vi hư hỏng”.
Chuyên
gia tâm lý tiến sĩ Nadine Kaslow, chủ tịch Hiệp Hội
Tâm Lý Học Hoa Kỳ (American Psychological Association) và không tham gia vào cuộc nghiên cứu này, nói rằng các
kết quả nghiên cứu nêu bật tính phản tác dụng và các tác hại tiềm tàng khi phản
ứng lại các vấn đề hành vi của trẻ vị thành niên bằng biện pháp kỷ luật bằng
ngôn ngữ không lành mạnh.
“Nó
gửi đi một thông điệp, đó là, khi bạn đang giận dữ hoặc bực mình hoặc sợ hãi,
la hét là cách để đối phó”, theo lời tiến sĩ Kaslow. “Đó là thông điệp mà các bậc cha mẹ không nên
gửi đến cho con cái của họ. Đồng thời,
hành động la hét thực sự không mang lại hiệu quả. Hành động này có thể ngăn cản hành vi xấu này
được một lúc nào đó, nhưng đứa trẻ có thể sẽ thể hiện trở lại hành vi này trong
vòng 1 hoặc 2 giờ sau đó”.
Nghiên
cứu này bao gồm 967 gia đình có cả cha và mẹ và con cái của họ, là những người
đã tham gia vào một thử nghiệm phát triển theo thời gian có tác dụng đánh giá về
đời sống xã hội của gia đình và sự phát triển của trẻ vị thành niên.
Khoảng
một nửa số tình nguyện viên là người Da Trắng, 40% là người Mỹ gốc Châu Phi và
số còn lại là những người thuộc các nhóm sắc tộc khác. Tất cả đã được mời tham gia từ 10 trường cấp 2 (middle
school) ở Pennsylvania.
Số
lượng tình nguyện viên đại diện phần lớn cho nhiều tầng lớp kinh tế xã hội khác
nhau, với thu nhập trung bình hàng năm của gia đình trước khi bị đánh thuế là
$51 000. Chín trong số mười gia đình
(89%) báo cáo rằng chỉ có một người trong cha mẹ có việc làm, 71% số người cha
và 69% số người mẹ tốt nghiệp trung học, và 50% số người cha và 46% số người mẹ
tốt nghiệp đại học.
Các
nhà nghiên cứu đã đánh giá 2 nhóm dữ liệu được thu thập khi các trẻ này đang học
lớp 7 (tuổi trung bình = 13,3; phạm vi 12,8-13,5) và lớp 8 (tuổi trung bình =
14,4; phạm vi 13,6-14,4).
Cuộc
khảo sát, được thiết kế để đánh giá hạnh kiểm của trẻ vị thành niên, bao gồm
các câu hỏi như: “Trong năm qua, bao lâu thì bạn: a) không tuân theo các quy định
ở trường, b) nói dối với cha mẹ, c) ăn cắp ở một cửa hàng, d) tham gia vào một
trận đánh nhau của băng nhóm, và e) phá hoại tài sản công cộng hoặc tài sản
riêng vì mục đích giải trí?” Các trẻ này
được hỏi để đánh giá các câu trả lời theo thang điểm từ 1 đến 5, 1 có nghĩa là
không bao giờ và 5 có nghĩa là “10 hoặc nhiều hơn”.
Các
cha mẹ tham gia nghiên cứu cũng trả lời những câu hỏi khảo sát được thiết kế để
đo lường việc họ sử dụng biện pháp giáo dục bằng ngôn ngữ không lành mạnh, với
các câu hỏi như: “Trong năm qua, sau khi con trẻ không vâng lời bạn hoặc làm điều
gì sai, bao lâu thì bạn: a) la mắng hoặc la hét con trẻ của bạn, b) chửi hoặc
nguyền rủa con cái, và c) chửi con là ngu hoặc lười biếng hoặc sử dụng những
tên gọi khác?”
Nghiên
cứu này nằm trong số các nghiên cứu đầu tiên kiểm tra các phương diện khác
trong hành vi của cha mẹ, chẳng hạn như sự ấm áp của cha mẹ, có điều tiết mối
liên hệ giữa biện pháp kỷ luật bạo hành bằng ngôn ngữ, hành vi của trẻ vị thành
niên, và các triệu chứng trầm cảm ở trẻ vị thành niên không.
Các
kết quả nghiên cứu cho thấy rằng sự ấm áp của cha mẹ không làm giảm được các
tác động của phương pháp giáo dục bằng ngôn ngữ không lành mạnh.
“Phương
pháp giáo dục bằng ngôn ngữ không lành mạnh có liên quan đến sự gia tăng của
các vấn đề hạnh kiểm cũng như các triệu chứng trầm cảm cho dù phong cách giáo dục
con trẻ của cha mẹ có sự ấm áp ở mức thấp, vừa, hoặc cao”, theo lời các nhà
nghiên cứu.
Họ
đã đưa ra một vài hạn chế của cuộc nghiên cứu, bao gồm: các hành vi của cha mẹ
và con trẻ là do tự báo cáo, thiếu các dữ liệu về hành vi của cha mẹ và con trẻ
ở những độ tuổi trước đây, chỉ có những gia đình có đủ cha mẹ được bao gồm
trong cuộc nghiên cứu này.
Phương
pháp giáo dục bằng ngôn ngữ không lành mạnh được xem gắn liền với sự gia tăng
các vấn đề hành vi ở các trẻ vị thành niên.
Các
nhà nghiên cứu kết luận rằng, “các kết quả chúng tôi tìm thấy hỗ trợ cho mô
hình tương tác của cha mẹ và con cái, và cho thấy rằng bất kỳ nỗ lực can thiệp
nào nhằm giảm bớt tác hại của phương pháp giáo dục bằng ngôn ngữ không lành mạnh
đến các vấn đề hạnh kiểm sẽ rất cần thiết để nhắm vào cả hai đối tượng cha mẹ
và con cái”. (Trở về đầu trang)
BỆNH TỰ KỶ MẤT TRÍ NĂNG LÀ DO DI TRUYỀN
Bệnh
tự kỷ mất trí năng (chỉ số IQ dưới 70) đã được các nhà nghiên cứu từ trường Đại Học Brown (Brown University), Rhode Island, Hoa
Kỳ chứng minh là do di truyền, nhóm nghiên cứu được dẫn đầu bởi Eric Morrow,
phó giáo sư sinh học ở Khoa Sinh Học Phân Tử, Sinh Học, và Sinh Hóa (Department
of Molecular Biology, Biology, and Biochemistry) tại trường đại học này. Nghiên cứu đã được đăng trên Tạp Chí Hoa Kỳ về Di Truyền ở Người (American Journal of Human Genetics) số ra ngày 3 tháng 7 năm 2013.
Bệnh tự kỷ mất trí năng (autism with
intellectual disability) là một nhóm con của nhiều rối loạn gộp lại với
nhau thành một tình trạng bệnh lý được gọi là bệnh
tự kỷ (autism).
Các
nhà khoa học nghiên cứu DNA (ADN) của hơn 2100 trẻ em bị bệnh tự kỷ, các trẻ
này được sinh ra trong những gia đình mà cả cha mẹ lẫn anh chị em không ai bị rối
loạn tự kỷ - một nhóm các dữ liệu của Tổ Chức
Simons (Simons Foundation) được biết đến như Bộ Dữ Liệu Simons Simplex (Simons Simplex Collection).
Các
nhà nghiên cứu đã tìm thấy rằng trong số trên 500 trẻ em bị bệnh tự kỷ mất trí
năng trong nhóm tham gia nghiên cứu này đã có các dấu hiệu đáng kể về đồng hợp tử (homozygosity)
thường xuất hiện hơn so với những anh chị em không bị ảnh hưởng.
Đồng
hợp tử có nghĩa là các gen di truyền từ cả cha và mẹ có sự giống nhau trên mức
bình thường. Tình trạng đồng hợp tử quá nhiều
sẽ làm cho bệnh tự kỷ mất trí năng trở thành một đặc tính di truyền lặn và điều
này giải thích cho lý do căn bệnh này chỉ xuất hiện ở một đứa trẻ trong một gia
đình.
Unaffected
“carrier” father: Người cha mang mầm
bệnh nhưng không bị ảnh hưởng
Unaffected
“carrier” mother: Người mẹ mang mầm bệnh
nhưng không bị ảnh hưởng
Unaffected
1 in 4 chance: 25% cơ hội không bị
ảnh hưởng
Unaffected
“carrier” 2 in 4 chance: 50% cơ hội không bị
ảnh hưởng “mang mầm bệnh”
Affected
1 in 4 chance: 25% cơ hội bị ảnh
hưởng
Nghiên
cứu có tác dụng định nghĩa nguyên nhân di truyền của bệnh tự kỷ mất trí năng
cũng có thể được sử dụng như một dấu hiệu sinh học lâm sàng hữu ích để dự đoán
khả năng một đứa trẻ có thể bị bệnh tự kỷ mất trí năng.
Tình
trạng đồng hợp tử rất hiếm khi xảy ra, do có rất nhiều các đối tượng giao phối
tiềm năng trên thế giới, nhưng chứng bệnh này có nguồn gốc từ một số lượng hạn
chế những người mà trước đây đã từng sinh sống rất nhiều trên trái đất. (Trở về đầu trang)
Vị
trí cư trú và một vài búp nhỏ bông cải xanh
(broccoli) trong bữa ăn tối có thể giúp khống
chế đặc tính di truyền khi bạn có khả năng bị chứng
viêm khớp (arthritis).
Các
đặc điểm về lối sống, bao gồm hút thuốc lá và các yếu tố môi trường khác, có thể
kích thích sự bắt đầu của chứng viêm khớp bằng cách tác động đến các cơ chế
sinh học liên quan đến căn bệnh, theo lời của trưởng khoa thấp khớp của tổ chức
Viêm Khớp Ái Nhĩ Lan (Arthritis Ireland) tại trường Đại Học UCD, Ái Nhĩ
Lan, Giáo Sư Gerry Wilson.
Những
lời bình luận của ông xuất hiện khi nghiên cứu ở Anh Quốc được đăng trên tạp
chí Chứng Viêm Khớp & Bệnh Thấp Khớp (Arthritis& Rheumatism)
phát hiện một hợp chất được tìm thấy trong bông cải xanh có thể ngăn ngừa sự tiến
triển của bệnh viêm xương khớp (osteoarthritis), một dạng viêm khớp phổ biến nhất.
Theo
dữ liệu thống kê dân số năm 2011, có trên 1 phần 5 người Ái Nhĩ Lan (Ireland)
hoặc khoảng 915 000 dân số bị một dạng viêm khớp nào đó, với khoảng 34% số phụ
nữ và 23% số nam giới bị ảnh hưởng.
Tình Trạng Hủy Hoại Sụn
Nghiên
cứu trong phòng thí nghiệm cho thấy rằng chất sulforaphane giúp làm chậm quá
trình hủy hoại sụn liên quan đến bệnh viêm xương khớp gây đau và suy yếu. Các chú chuột được nuôi bằng chế độ ăn giàu hợp
chất này đã giảm bớt được tình trạng hủy hoại sụn một cách đáng kể.
Chất
sulforaphane được phóng thích khi tiêu thụ các loại rau củ họ cải chẳng hạn như
cải Brussels và bắp cải, nhưng đặc biệt là bông cải xanh. Trong khi các nghiên cứu trước đây tiến hành
xem xét tác dụng chống ung thư của loại siêu thực phẩm này, thì đây là nghiên cứu
quan trọng đầu tiên tập trung vào các tác dụng lên sức khỏe khớp của bông cải
xanh.
Tình Trạng Viêm
Nghiên
cứu của trường Đại Học East Anglia (University of East Anglia), Liên Hiệp Anh, cũng tập trung nghiên cứu
các tế bào sụn ở người, đã khám phá ra rằng chất sulforaphane có khả năng chặn
các men (enzyme)
có khả năng phá hủy khớp bằng cách ngăn chặn một phân tử quan trọng được xem là
gây viêm.
Tác
giả dẫn đầu cuộc nghiên cứu, Giáo Sư Ian Clark nói: “Bây giờ chúng tôi muốn chứng
minh điều này ở con người. Chắc chắn nó
sẽ rất hiệu quả nếu chúng tôi có thể tiến hành thử nghiệm ở người”.
Các
thử nghiệm ở tầm mức nhỏ hiện nay được lên kế hoạch cho các bệnh nhân bị viêm
xương khớp do được phẫu thuật thay thế đầu gối, nhằm xem xét việc tiêu thụ bông
cải xanh có hiệu ứng tương tự lên khớp của người không.
“Đây
là một nghiên cứu rất quan trọng”, Giáo Sư Wilson nói thêm: “Chúng tôi đã thành
công trong việc điều chỉnh bệnh viêm thấp khớp nhưng chưa có các loại thuốc làm
giảm nhẹ bệnh cho các bệnh nhân bị viêm xương khớp”.
John
Church, giám đốc điều hành của tổ chức Viêm Khớp Ái
Nhĩ Lan (ArthritisIreland),
nói rằng sự tiến bộ trong việc nghiên cứu là mục tiêu quan trọng cho lòng nhân
ái, khi “mục tiêu cuối cùng cho tất cả những người phải sống với bệnh viêm khớp
là tìm ra phương pháp chữa khỏi”.
“Chúng
tôi mong rằng có thể xác định được các nguy cơ.
Các dữ liệu trên thế giới cho thấy các yếu tố chẳng hạn như cách bạn sống
hoặc vị trí nơi bạn cư trú có thể ảnh hưởng đến nghiên
cứu thay đổi kiểu gen của căn bệnh (disease
epigenetics)”, theo lời của Giáo Sư Wilson.
“Nghiên
cứu về bệnh viêm khớp phát triển mạnh ở Ái Nhĩ Lan”, ông nói thêm, “thủ đô
Dublin đang đi trước các thành phố lớn ở Anh Quốc về các nghiên cứu ở bệnh
nhân”. (Trở về đầu trang)
Bạn
có tự ru ngủ bằng giọng hát của chính mình không? Trong một nghiên cứu mới đây tại trường Đại Học Exeter (University of Exeter), Liên Hiệp Anh, những người tiến hành tập hát
khoảng 20 phút mỗi ngày trong vòng 3 tháng đã giảm được 14% cảm giác mệt mỏi và
15% tình trạng ngáy trong lúc ngủ khi so sánh với những người không tiến hành tập
hát.
Tình
trạng ngáy xảy ra khi luồng khí từ miệng hoặc mũi đi vào phổi làm cho các tổ chức
mô của đường dẫn khí bị rung động. Hiện tượng
này thường do tình trạng mũi, miệng, hoặc cổ họng bị thu hẹp lại hoặc bị tắc
nghẽn gây ra.
Khi
bạn hít vào trong lúc đang ngủ, thì không khí sẽ đi vào miệng hoặc mũi rồi đi
ngang qua vòm miệng mềm (soft palate: vòm trong của miệng), sau đó đi tới
phổi. Phía trong miệng – nơi lưỡi và phần
trên của cổ họng tiếp giáp với vòm miệng mềm và lưỡi
gà (uvula) – là nơi dễ bị xẹp xuống. Nếu khu vực này bị xẹp xuống, đường dẫn khí sẽ
trở nên thu hẹp lại hoặc bị tắc nghẽn.
Đường dẫn khí bị thu hẹp hoặc bị tắc nghẽn sẽ ảnh hưởng đến luồng khí ra
vào, tình trạng này làm cho vòm miệng mềm và lưỡi gà bị rung động đồng thời
đánh vào phía sau cổ họng, gây ra hiện tượng ngáy. Amiđan (tonsils) và hạch hạnh
nhân ở họng (adenoids: mô bạch huyết nằm
sau mũi ở phần trên của cổ họng) cũng có thể bị rung động. Đường dẫn khí càng hẹp, thì mô họng càng rung
động mạnh, và do đó tiếng ngáy càng trở nên to hơn.
Soft palate: Vòm miệng mềm
Tonsils: Amiđan
Hard palate: Vòm miệng cứng
Uvula: Lưỡi gà
Tuy
nhiên, nếu làm cho các cơ cổ họng được cứng cáp hơn (bằng cách thực hiện các
bài tập như hát) thì sẽ giúp đường hô hấp của bạn thông mở suốt đêm, theo lời của
nhà khoa học dẫn đầu cuộc nghiên cứu Malcolm Hilton.
Các
bài tập mà những tình nguyện viên sử dụng trong nghiên cứu này được thiết kế
riêng cho các cơ mục tiêu đặc biệt – các bài tập hát này đòi hỏi phải phát ra
nhiều âm thanh “ung” và “gah”. Malcolm
Hilton, bác sĩ khoa tai mũi họng (otolaryngologist), đề xuất rằng bất kỳ hình thức
hát nào trong khoảng thời gian ngắn được thực hiện mỗi ngày cũng đều có thể có
hiệu ứng tương tự. (Đây cũng là một cách
để bạn giết thời gian trong lúc đang tắm hoặc đang lái xe).
Bạn
không cảm thấy muốn hát líu lo? Các bài tập về
thanh âm (vocal workouts) không phải
là phương pháp duy nhất để ngăn chặn tình trạng ngáy trong lúc ngủ. Bệnh béo phì, hút thuốc lá, và các chất gây an thần (sedatives)
chẳng hạn như rượu bia sẽ làm trầm trọng thêm vấn đề cho dù bạn có yết hầu mạnh
mẽ nhất quả đất. Và nếu như bạn cho rằng
bạn bị chứng ngưng thở trong lúc ngủ (sleep apnea) – ngưng thở tạm thời trong lúc ngủ
thường kéo dài khoảng 20 – 40 giây – thì bạn nên đi khám bác sĩ; chứng bệnh này
có thể dẫn đến chứng cao huyết áp, đột quỵ (tai biến mạch máu não), và bệnh
tim. (Trở về đầu trang)
CÁC VI KHUẨN TÌM THẤY TRONG MIỆNG CÓ THỂ GÂY UNG THƯ ĐẠI TRÀNG
Một
loại vi khuẩn thường được tìm thấy trong miệng, nguyên nhân phổ biến gây bệnh nứu
răng, cũng kích thích sự hình thành các khối u của bệnh ung thư đại tràng, theo
báo cáo của các nhà nghiên cứu hôm nay.
Trước
đây, các nhà khoa học đã từng phát hiện rằng những người bị ung thư đại tràng (colon
cancer) có số lượng vi khuẩn Fusobacterium nucleatum trong ruột
cao hơn. Điều này rất đáng chú ý vì các
vi khuẩn fusobacteria không phải là một trong số các chủng loại thường
được tìm thấy trong ruột của những người có sức khỏe tốt.
Tuy
nhiên, cho đến nay người ta vẫn chưa rõ các vi khuẩn lạ làm cho tổ chức mô biến
thành ung thư hay vi khuẩn này là kết quả của bệnh ung thư. Hiện nay, các nhà nghiên cứu báo cáo rằng các
loại vi khuẩn này thực sự kích thích sự hình thành các khối u, và họ xác định
được phân tử gây ra các tác dụng gây hại của loại vi khuẩn này.
Một Dạng Ung Thư Phổ
Biến
Ung
thư đại tràng là nguyên nhân đứng thứ hai gây ra tử vong do ung thư ở Hoa Kỳ,
và mỗi năm có hơn 1 triệu các trường hợp bệnh mới được chẩn đoán trên toàn thế
giới. Bằng cách tìm ra cách thức các vi
khuẩn fusobacteria kích thích sự hình thành các khối u ung thư, các nhà khoa học
có thể tiến hành các trị liệu có thể có tác dụng ức chế hoạt động của loại vi
khuẩn này và có thể tiêu diệt nó hoàn toàn khỏi mô đại tràng.
Các
nghiên cứu trước đây đã tập trung vào một nhóm con của bệnh ung thư đại tràng
do bệnh viêm đường ruột (inflammatory bowel disease) gây ra, hoặc các trường
hợp bệnh liên quan đến chứng viêm đại tràng và ruột non. Thay vào đó, các nhóm khoa học (đăng tải các
nghiên cứu hôm nay) đã tập trung vào một loại vi khuẩn có tác dụng kích thích sự
hình thành các khối u ung thư nhưng không liên quan đến tình trạng viêm ruột rõ
rệt.
Ung Thư Đại Tràng và
Các Vi Khuẩn
Trong
bài nghiên cứu đầu tiên, một nhóm từ trường Đại Học Havard và Viện Ung Thư Dan-Farber (Dan-Farber Cancer Institute) báo cáo rằng vi khuẩn
fusobacteria tỏ ra thịnh hành ở các u tuyến đại
tràng (colon adenoma), về cơ bản là
các khối u lành tính giai đoạn đầu mà theo thời gian có thể biến thành ác
tính. Khi thử nghiệm với chuột có các khối
u ruột, nhóm nghiên cứu này đã có thể tăng tốc quá trình hình khối u ban đầu bằng
cách cho chúng tiêu thụ các loại vi khuẩn fusobacteria.
Các
nhà nghiên cứu cũng cho các chú chuột này tiêu thụ các chủng loại vi khuẩn
khác, chẳng hạn như vi khuẩn Streptococcus, loại vi khuẩn này
được biết có liên quan đến bệnh ung thư đại tràng. Các chú chuột được cho tiêu thụ vi khuẩn fusobacteria
đã có các khối u được hình thành ở mức độ cao hơn so với
các chú chuột được cho tiêu thụ các vi khuẩn Streptococcus.
Không
giống các loại vi khuẩn khác, vi khuẩn fusobacteria khá âm thầm và hoạt động ở
mức siêu viêm – nhóm nghiên cứu trường Đại Học Havard đã không quan sát thấy
tình trạng viêm ruột xảy ra ở mức độ lớn.
Yếu Tố Phân Tử Gây Bệnh
Một
nhóm nghiên cứu thứ hai tại trường Đại Học Case
Western Reserve (Case Western Reserve University) đã phát hiện loại phân tử cụ thể, cho phép sự xâm lấn
âm thầm này: một loại phân tử có tên gọi là FadA. Mức thể hiện kiểu gen của phân tử FadA ở các
mô đại tràng của các bệnh nhân với các u tuyến và các khối u ung thư là 10 đến
100 lần cao hơn so với những tình nguyện viên có sức khỏe tốt.
Các
nhà nghiên cứu cũng xác định cách thức phân tử FadA thực hiện “phép ảo thuật”
nguy hiểm: bằng cách ngăn chặn quá trình thể hiện kiểu gen của một gen có khả
năng ức chế sự phát triển của khối u. Cả
hai nghiên cứu được đăng trên tạp chí Chủ Thể Tế
Bào và Vi Sinh Vật (Cell Host & Microbe).
“Chúng
tôi đã chứng minh được rằng phân tử FadA là một dấu hiệu mà có thể được sử dụng
cho việc chẩn đoán ban đầu của bệnh ung thư đại tràng và xác định các mục tiêu
trị liệu tiềm tàng để điều trị hoặc phòng chống chứng bệnh gây suy nhược phổ biến
này”, theo lời của tiến sĩ Yiping Han của trường Đại
Học Nha Khoa Case Western Reserve (Case Western Reserve University School of Dental Medicine). (Trở về đầu trang)
NGUY CƠ TĂNG LIPIT HUYẾT VÀ NHỒI MÁU CƠ TIM Ở ĐÀN ÔNG TRUNG NIÊN
Theo
một nghiên cứu mới đây với trên 40 000 người đàn ông và phụ nữ ở Na Uy, tình trạng
cao cholesterol tạo ra nhiều nguy cơ bị một cơn nhồi máu cơ tim lần đầu tiên
cho đàn ông trung niên hơn so với phụ nữ trung niên.
Nghiên
cứu này, được đăng trên tạp chí Dịch Tễ Học
(Epidemiology) số ra tháng 9, cho thấy rằng
là đàn ông trung niên và có mức cholesterol cao sẽ tạo ra hiệu ứng đồng vận gây hại (negative synergistic effect), các nhà nghiên cứu không quan sát
thấy điều này ở phụ nữ. Tuy nhiên, các
hướng dẫn lâm sàng hiện hành về điều trị cholesterol không phân biệt giữa nam
giới và phụ nữ.
“Các
kết quả của chúng tôi cho thấy rằng ở tuổi trung niên, tình trạng cao
cholesterol có hại cho nam giới hơn so với phụ nữ, do đó các nỗ lực phòng chống
ở nhóm tuổi này sẽ có khả năng rất lớn giúp giảm được cơn nhồi máu cơ tim xảy
ra lần đầu tiên ở nam giới”, theo lời của Erik Madssen tại Khoa Tuần Hoàn và Chụp Hình Y Khoa của trường Đại Học
Khoa Học và Công Nghệ Na Uy (Norwegian
University of Science and Technology’s [NTNU] Department of Circulation and
Medical Imaging), đồng tác giả bài nghiên cứu với Lars Erik Laugsand
(cũng là đồng nghiệp tại trường NTNU).
Các
nhà nghiên cứu đã sử dụng các dữ liệu từ Nghiên Cứu
Sức Khỏe Nord-Trøndelag (Nord-Trøndelag
Health Study), một nghiên cứu khảo sát trên toàn tỉnh được thực hiện từ
năm 1995 – 1997 ở Nord Trøndelag, Na Uy, bao gồm việc thu thập mẫu máu của 65
000 người. Vì các nhà nghiên cứu đưa ra
giả thuyết rằng các kích thích tố giới tính nữ
(female sex hormone) có thể có khả năng bảo
vệ phụ nữ khi nói đến tỷ lệ bị các cơn nhồi máu cơ tim đầu tiên, họ đã giới hạn
việc phân tích chỉ dành cho những tình nguyện viên dưới 60 tuổi vào thời điểm của
cuộc nghiên cứu.
Vào
cuối cuộc nghiên cứu, các nhà khoa học đã có được những thông tin của 23 525 phụ
nữ và 20 725 nam giới phù hợp với hạng mục này.
Trong suốt gần 12 năm theo dõi những tình nguyện viên dưới 60 tuổi vào
thời điểm cuộc nghiên cứu được thực hiện, đã có 157 các trường hợp mới bị nhồi
máu cơ tim ở phụ nữ và 553 trường hợp ở nam giới.
Các
nhà nghiên cứu cũng đã tiến hành một cuộc phân tích thứ hai đối với những tình
nguyện viên từ 60 tuổi trở lên vào thời điểm nghiên cứu, cho họ thêm 20 138 cá
nhân cho quá trình phân tích. Tuy nhiên,
không có chứng cứ cho thấy hiệu ứng đồng vận gây hại ở các tình nguyện viên nam
trong nhóm tuổi này.
“Các
phát hiện của chúng tôi cho thấy rằng những người đàn ông trung niên bị cao
cholesterol sẽ có thêm nguy cơ bị nhồi máu cơ tim nghiêm trọng hơn là đã từng
được lập luận”, Madssen và Laugsand nói rằng, “Do đó, những người đàn ông này
phải được điều trị nghiêm ngặt hơn so với các trường hợp thường thấy hiện nay,
để có thể ngăn ngừa được nhiều trường hợp nhồi máu cơ tim hơn cũng như có thể cứu
sống được nhiều bệnh nhân hơn”. (Trở về đầu trang)
CÁC NGUYÊN TẮC HƯỚNG DẪN MỚI: TIẾP XÚC VỚI
VIRUT HIV TẠI CÔNG SỞ, ĐIỀU TRỊ CÀNG SỚM CÀNG TỐT
Các
nhân viên ngành chăm sóc sức khỏe khi bị tiếp xúc với virut HIV tại nơi làm việc
nên bắt đầu ngay 4 tuần điều trị phòng vệ hậu tiếp
xúc (post-exposure prophylaxis) với 3
loại thuốc kháng HIV, theo các nguyên tắc hướng dẫn mới cập nhật.
Nguyên
tắc hướng dẫn 3 loại thuốc mới này là một sự thay đổi từ các đề xuất năm 2005 của
Bộ Sức Khỏe Công Cộng Hoa Kỳ (U.S. Public Health Service), đề xuất chỉ định một số các loại thuốc dựa
vào đánh giá nguy cơ nhiễm bệnh, theo bác sĩ David Kuhar, tại Trung Tâm Kiểm Soát và Phòng Chống Dịch Bệnh Hoa Kỳ
(Centers for Disease Control and Prevention), và các đồng nghiệp.
Các
nguyên tắc hướng dẫn mới này cũng đề xuất rằng giai đoạn xét nghiệm HIV theo
dõi có thể được cắt ngắn nếu các kiểm tra phân tích thế hệ thứ 4 được sử dụng,
bác sĩ Kuhar và các đồng nghiệp đã đăng báo cáo trên mạng và đăng trong tạp chí
Kiểm Soát Nhiễm Trùng và Dịch Tễ Học Bệnh Viện
(Infection Control and Hospital Epidemiology).
Bác
sĩ Kuhar và các đồng nghiệp đã lưu ý rằng, các đề xuất được sửa đổi này bao gồm
những cải thiện ở các loại thuốc kháng HIV, đó là, khả năng dung nạp tốt hơn và
thuận tiện hơn từ các nguyên tắc hướng dẫn được soạn thảo vào năm 2005.
Các
tác giả lưu ý rằng, các đề xuất trước đây tạo ra những khó khăn trong việc áp dụng,
một phần vì người ta khó có thể quyết định mức độ rủi ro bị nhiễm bệnh trong bất
cứ trường hợp tiếp xúc nào.
Do
đó, điều này đã gây khó khăn cho việc xác định là nên sử dụng 2 hoặc 3 loại thuốc.
Và
“tần suất cao bị các tác dụng phụ cũng như độc tính” liên quan đến những sự phối
hợp thuốc vào lúc đó đã làm cho sự kết bám khó khăn hơn.
Sự
tiếp xúc với HIV ở nơi làm việc chỉ chiếm khoảng 0,3% trong số các trường hợp
nhiễm trùng. Theo các tác giả, thử nghiệm
ngẫu nhiên để xác định số lượng các loại thuốc nên được sử dụng tỏ ra không thực
tế.
Thay
vào đó, nhóm soạn thảo nguyên tắc hướng dẫn và một ủy ban các chuyên gia tư vấn
xem xét lại chứng cứ và những trải nghiệm của họ để đưa ra những đề xuất mới.
Một
số hướng dẫn không thay đổi, bao gồm:
-
Điều
trị phòng vệ được đề xuất bất cứ khi nào có sự tiếp xúc với HIV ở nơi làm việc
– từ kim đâm đến sự tiếp xúc giữa một vết cắt và những chất dịch có nguy cơ bị
nhiễm.
-
Nếu
có thể, tình trạng nhiễm HIV của nguồn tiếp xúc phải được xác định để giúp hướng
dẫn nhu cầu điều trị phòng vệ (prophylaxis).
-
Nên
bắt đầu sử dụng thuốc càng sớm càng tốt và kéo dài liên tục trong 4 tuần.
-
Nên
được tư vấn bởi các chuyên gia về HIV, và đặc biệt trong các trường hợp phức tạp
– những trường hợp người bị tiếp xúc đang mang thai, có một sự nghi ngại về khả
năng kháng thuốc HIV ở nguồn, chế độ thuốc đầu tiên có tính độc, hoặc nhân viên
bị tiếp xúc có chứng bệnh nghiêm trọng tiềm ẩn, chẳng hạn như bệnh thận.
-
Những
nhân viên bị tiếp xúc với HIV phải được giám sát chặt chẽ - bao gồm tư vấn, xét
nghiệm HIV tiêu chuẩn cũng như xét nghiệm theo dõi, và giám sát độc tính của
thuốc – bắt đầu trong vòng 72 giờ sau khi tiếp xúc với HIV.
Các
đề xuất mới cũng giảm bớt thời gian xét nghiệm theo dõi từ 6 tháng xuống còn 4
tháng nếu một loại xét nghiệm thế hệ thứ 4 được sử dụng, vì các xét nghiệm thế
hệ mới này có khả năng phát hiện cùng lúc kháng nguyên p24 và các kháng thể đối
với virut này, và được xem là đáng tin cậy hơn so với các xét nghiệm trước đây.
Các
đề xuất mới cũng đề xuất một chế độ thuốc được ưa chuộng – chế độ phối hợp giữa
thuốc tenofovir và emtricitabine
(Truvada) và thuốc raltegravir (Isentress).
Bác
sĩ Kuhar và các đồng nghiệp nói rằng, chế độ thuốc này có các đặc điểm như mong
muốn, chẳng hạn như “một kết quả phân tích tác dụng phụ có lợi cũng như lịch
trình sử dụng thuốc thuận tiện”.
Nhưng
đây không phải là chế độ thuốc được sử dụng cho tất cả mọi trường hợp, nhân
viên ngành chăm sóc sức khỏe nếu bị tiếp xúc với HIV thì cần phải được các
chuyên gia tư vấn để thiết kế chế độ thuốc thích hợp. Ví dụ, các tác giả viết, thuốc tenofovir có
liên quan đến tình trạng nhiễm độc thận và những người bị bệnh thận nên tránh sử
dụng. (Trở về đầu trang)
SỰ THẬT VỀ DẦU CÁ VÀ UNG THƯ TUYẾN TIỀN
LIỆT
Bạn
có nên ngưng tiêu thụ dầu cá? Một nghiên
cứu mới đây được đăng trên Tạp Chí của Viện Ung Thư
Quốc Gia (Journal of the National Cancer Institute) đã tìm thấy rằng những nam giới với nồng độ các
axit béo omega-3 trong máu cao nhất có nguy cơ phát triển bệnh ung thư tuyến tiền
liệt tăng 71%.
Mặc
dù con số thống kê này có thể gây lo lắng, nhưng khi xem xét chi tiết các phát
hiện của nghiên cứu này thì không có lý do gì để bạn phải vứt bỏ các loại thực
phẩm chức năng chứa dầu cá, hoặc loại bỏ cá thu mackerel ra khỏi chế độ ăn.
Bác
sĩ Larry Lipshultz, của trường Đại Học Y Khoa
Baylor (Baylor College of Medicine),
nói rằng: “Điều quan trọng nhất mà bạn nên biết là đây không phải là một kết quả
mang tính chính thức. Dạng nghiên cứu
này cho thấy được sự tương quan, nhưng nó không chứng minh được nguyên nhân gây
bệnh”. Nói cách khác, đây không phải là
một thử nghiệm lâm sàng được kiểm soát, trong đó một số nam giới được cho uống
dầu cá và những người khác không sử dụng dầu cá.
Thay
vào đó, các nhà nghiên cứu đã xem xét hàm lượng của một số axit béo omega-3
trong máu của những tình nguyện viên và quan sát ai đã phát triển bệnh ung thư
tuyến tiền liệt và ai không phát triển chứng bệnh này theo thời gian – nhưng
phương pháp mà các nhà nghiên cứu đã sử dụng không mang tính thuyết phục lắm,
theo lời của tiến sĩ chuyên khoa dinh dưỡng Chris Mohr.
Những
người đàn ông trong nghiên cứu này được xét nghiệm máu mỗi năm một lần. “Đó chỉ là một sự quan sát sơ lược những gì
có trong máu vào những thời điểm đó thay vì là một bức tranh rõ rệt về việc
tiêu thụ dài hạn các axit béo omega-3”, theo lời tiến sĩ Mohr, “nếu bạn vừa
dùng bữa tối với cá hồi đêm hôm trước, thì nồng độ axit béo omega-3 sẽ cao hơn
mức trung bình thực sự rất nhiều”.
Ngoài
ra, ban đầu các nhà nghiên cứu đã không có ý định tiến hành xác định mối tương
quan giữa các axit béo omega-3 và bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Các kết quả nghiên cứu này được ngoại suy (extrapolate)
từ một nghiên cứu xem xét khả năng bảo vệ chống lại bệnh ung thư tuyến tiền liệt
của selen và vitamin E. (Các chất này
không có khả năng chống ung thư tuyến tiền liệt). Các nhà nghiên cứu cũng chỉ tình cờ thu thập
những thông tin về mức omega-3 trong máu, và điều này tỏ ra không hợp lý lắm.
Kết luận
Các
nghiên cứu chứng minh các tác dụng bảo vệ sức khỏe tim, não, mắt và các cơ quan
khác của các axit béo omega-3 có số lượng và tính thuyết phục cao hơn nhiều so
với nghiên cứu này, theo lời của tiến sĩ Mohr.
Cần thêm nhiều thử nghiệm lâm sàng được kiểm soát để chứng minh mối liên
hệ giữa ung thư tuyến tiền liệt và các axit béo omega-3. Do đó, bạn hãy tiếp tục tiêu thụ cá ít nhất mỗi
tuần 2 lần, hoặc bổ sung thêm dầu cá vào chế độ ăn của bạn. (Trở về đầu trang)
Nguồn
(Source):